Hôm nay: 29/3/2024, 03:59

Tìm thấy 4 mục

NHÂN NGÀY TIẾNG MẸ ĐẺ 21/02 - Tác giả: Nguyên Hoàng

NHÂN NGÀY TIẾNG MẸ ĐẺ 21/02
(Tác giả: Nguyên Hoàng)
=======


Ngày 21/02 hàng năm là ngày TIẾNG MẸ ĐẺ QUỐC TẾ. Đây là ngày mà UNESCO qui định làm ngày tưởng niệm để các dân tộc trên toàn thế giới bảo tồn và phát huy TIẾNG MẸ ĐẺ.
Việc Chữ VN Song Song 4.0 (CVNSS4.0) cũng lấy ngày 21/02 hàng năm làm ngày kỉ niệm CVNSS4.0 mang một ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Tiếng nói và chữ viết có một mối quan hệ rất mật thiết với nhau, nó tác động qua lại để thúc đẩy nhau phát triển.
  Nếu như tiếng nói là một phương tiện để biểu đạt bằng lời nói, thì chữ viết là phương tiện của lời nói…để biểu đạt lời nói (ngôn ngữ) bằng những ký hiệu (chữ viết).
  “Lời nói gió bay”, hành động, cử chỉ rồi sẽ quên… Nhưng chữ viết sẽ ghi lại tất cả?

  Để giúp các bạn hiểu rõ hơn về quá trình hình thành và phát triển chữ viết Việt nói chung và chữ Quốc Ngữ nói riêng, xin mời các bạn đọc kỹ phần tóm tắt bài sưu tầm dưới đây của chúng tôi:
 
“Trước khi chữ Quốc Ngữ ra đời, chúng ta đã dùng chữ Hán, chữ Nôm. Chữ Hán là chữ Tàu nhưng đọc theo giọng Việt, khác hẳn giọng của những người Tàu mặc dù nước Việt đã trải qua hàng ngàn năm bị đô hộ.
   Vì truyền thống dân tộc không thể để bị đồng hóa, nên chữ Nôm ra đời. Chữ Nôm dùng những chữ Hán ghép lại để ghi tiếng Việt. Vì vậy chữ Nôm có rất nhiều nét.
   Khác với chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ mà ngày nay chúng ta dùng là loại chữ dùng những mẫu tự La-Tinh ghép thành.
   Cho đến nay có nhiều người nghĩ rằng Alexandre de Rhodes đã sáng tạo ra chữ Quốc Ngữ? Theo nghiên cứu của giáo sư Thanh Lãng thì “De Rhodes không phải là ông tổ duy nhất của chữ Quốc Ngữ và cũng không phải là một trong những ông tổ của chữ Quốc Ngữ. Sự phiên âm đã có trước khi De Rhodes chưa đến Việt Nam …Nói như vậy không phải là chúng ta phủ nhận những công trình của De Rhodes đối với chữ Quốc Ngữ, quyển tự điển do chính ông soạn là quyển từ điển Quốc Ngữ lâu đời nhất (1651) mà chúng ta còn giữ lại được.
    Trở lại vấn đề, ai là người chế ra chữ Quốc Ngữ? Không có một cá nhân nào hết. Trước De Rhodes đã có những giáo sĩ người Bồ Đào Nha như Gaspar de Amaral và Antonio Barbosa đã làm những quyển tự điển đầu tiên. Nhưng ngay cả hai giáo sĩ này cũng không phải là những người chế ra chữ Quốc Ngữ, vì trước đó đã có nhiều giáo sĩ giỏi tiếng Việt như J. Roiz, G. Luis, C. Borri, v.v. còn để lại nhiều tại liệu viết từ năm 1621 (De Rhodes 1626).
   Vậy, chữ Quốc Ngữ được sáng chế ra bởi cả một số đông giáo sĩ trong quá trình ghi chép, phiên âm và sử dụng hàng chục năm, không xác định được là năm nào, là cá nhân nào.
   Trong giai đoạn đầu chữ Quốc Ngữ còn nhiều khuyết điểm. Những khuyết điểm đó là: chưa có các dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã, nặng), viết dính nhau và còn thiếu nhiều nguyên âm.
Chẳng hạn như:
-Quanmguya = Quảng Ngãi
-Onsaij = ông sải
-Tuijciam biêt = Tui Chẳng Biết
-Mocaij = một cái.
Hồi này chưa có các phụ âm đơn: đ, x, v cho nên những phụ âm này được viết như sau:
-d = đ (đói = doij)
-sc = x, (xin = scin)
-b = v, (vào = bau).
    Lại thiếu phụ âm kép: ch, gh, nh, tr; cho nên:
-gn = nhcia = ch
  Đến năm 1626, chữ Quốc Ngữ đã được viết rời ra. Theo tài liệu viết tay của Francesco Buzomi:
-Thien chu = thiên chũ (thiên chúa)
-ngaọc huan = ngọc hoàng
Đến năm 1632, hệ thống phụ âm, nguyên âm và các dấu thanh đã trở nên hoàn hảo.
   Một vài chữ từ tài liệu của Amaral:
-Đàng tlaõ = đàng trong,
-Đàng ngoày = đàng ngoài,
-Đàng tlên = đàng trên
-Nhà thương đây = nhà thượng đài.

  Đến đây ta đã thấy chữ Quốc Ngữ đã tiến một bước dài.
   Đó là có đủ năm dấu thanh (sắc, huyền, hỏi, ngã và nặng), các nguyên âm (a, ă, â, e, ê, v.v.), các âm kép (au, ưa, âĩ, v.v.), và những phụ âm kép (nh, ch, ng, v.v.).
   Nhưng chữ Quốc Ngữ chưa thật sự trưởng thành cho đến năm 1651 khi quyển tự điển Việt-Bồ-La (Việt Nam – Portugese – Latin) và quyển Giáo Lý của De Rhodes ra đời. Sự ra đời của quyển Từ Điển này là một cái mốc quan trọng trong quá trình hình thành chữ Quốc Ngữ.
  Từ Điển Béhaine (1772) Sau De Rhodes là P. De Béhaine (thường được gọi là Bá Đa Lộc), với sự cộng tác của Hồ Văn Nghi và một số người Việt khác đã hoàn thành quyển từ điển Annam – Latin.
    Những cải tiến trong quyển từ điển này là: Thống nhất các phụ âm đầu, loại bỏ các phụ âm: bl, de, ge, ml, tl và thống nhất các phụ âm cuối.
   Ngoài ra, vì được sự cộng tác của nhiều người Việt cho nên trong quyển từ điển này có cả trăm câu ca dao, tục ngữ rất có giá trị như:
-Sá bao cá chậu chim lồng.
-Hễ người quân tử có cùng mới nên.
-Duỗi theo ống thẳng lận theo bầu tròn.
-Bụng làm dạ chịu.
-Cháu đẻ ra ông.
-Thắp đuốc tìm giàu, giàu chẳng thấy.
-Cầm gươm chém khó, khó theo sau.
    Những câu này đã được ghi bằng chữ Nôm, chữ Quốc Ngữ và chữ Latin. Thật là một tài liệu giá trị.

    Từ Điển Taberd (1832) Với sự hợp tác của Phan Văn Minh và nhiều người Việt Nam khác, Taberd đã sử dụng và bổ sung quyển tự điển của Béhaine để hoàn tất hai quyển tự điển: Annam-Latin và Latin-Annam
Taberd chỉ chủ trương và phối hợp. Còn công việc biên soạn phần Nôm, phần Quốc Ngữ và thích nghĩa là công việc của một số người Việt Nam.

   Cho đến năm 1862, chữ Quốc Ngữ chỉ được sử dụng trong giới truyền giáo, nhưng khi người Pháp xâm chiếm Nam Kỳ làm thuộc địa, chữ Quốc Ngữ đã trở nên phổ thông.
  Cần sử dụng chữ Quốc Ngữ làm phương tiện cai trị nên người Pháp đã ra sức phổ biến chữ Quốc Ngữ và vì chữ Quốc Ngữ rất là dễ học so với chữ Nôm hoặc chữ Hán, chữ Quốc Ngữ trở nên thông dụng.
   Trong giai đoạn này đã có nhiều tác phẩm bằng chữ Quốc Ngữ được ấn hành như: Lục Vân Tiên, Kim Vân Kiều, Gia Huấn Ca, Tam Tự Kinh, Minh Tâm Bửu Giám, tự điển song ngữ của Trương Vĩnh Ký, v.v.
     Đặc biệt là quyển Đại Nam Quấc Âm Tự Vị của Huình Tịnh Paulus Của (1895), quyển tự điển xưa nhất mà hiện nay còn lưu hành với 7537 từ đơn. Quyển này chứa nhiều từ ngữ xưa mà ngày nay không còn được sử dụng nữa. Vì vậy, nó là một kho tài liệu vô cùng quí giá.
   Song song với những tác phẩm trên, nhiều tờ báo đã được lưu hành như Gia Định Báo (1865), Phan Yên Báo (1868), Nhật Trình Nam Kỳ (1883), Nam Kỳ Địa Phận (1883), Nông Cổ Mím Đàm (1901), v.v. Đánh dấu sự tiến triển vượt bực của chữ Quốc Ngữ.

    Chữ Quốc Ngữ đã góp phần to lớn trong công việc bảo tồn và phát huy nền văn hóa nước nhà.
   Vì dễ học, cho nên đại đa số quần chúng có thể thưởng thức những tác phẩm Hán và Nôm đã được Quốc Ngữ hóa. Nhiều tác phẩm mới đã được phát hành rộng rãi vì phương tiện ấn loát dễ dàng và ít tốn kém, đặc biệt là từ khi chữ Quốc Ngữ được điện toán hóa.
   Chữ Quốc Ngữ đã tạo điều kiện cho nền Văn Học Việt Nam phát triển toàn diện.

  Ghi chú: Trên đây là phần tóm lược của chúng tôi từ tài liệu do một số Thầy trường Văn Lang đã tóm lược.
(Tài liệu: Chữ Quốc Ngữ trên Đất Sài Gòn – Gia Định. Những Thế Kỷ XVII-XVII-XIX của Trần Văn Giàu, Thanh Lãng và Hoàng Xuân Việt)
————————————

     Qua phần chúng tôi đã tóm lược tài liệu ở trên, chúng ta đã hiểu được rằng: Chữ Quốc Ngữ hiện nay rất khác với chữ Quốc Ngữ lúc mới hình thành? Nó đã được CHỈNH SỬA, THÊM, BỚT…ĐỂ NGÀY CÀNG HOÀN CHỈNH VÀ TIỆN LỢI HƠN.
Đây là điều tất yếu! Một việc làm cần thiết, phù hợp với qui luật phát triển của xã hội. (Chữ viết là PHƯƠNG TIỆN được sửa, chỉnh theo thời gian để ngày càng hoàn hảo hơn).

  Vấn đề đặt ra là:
   Chữ Quốc Ngữ như hiện nay đã hoàn chỉnh chưa? Có cần phải được tiếp tục chỉnh sửa nữa hay không?
   Để tìm hiểu thêm… Xin mời các bạn hãy đọc bài viết của Thầy Trần Tư Bình về công thức CVNSS4.0 ở:
http://chuvietnhanh.sourceforge.net/CongThucChuVNSongSong4.0VaViDu.htm
     Sau đây, chúng tôi xin được trình bày tiếp 3 nội dung quan trọng cần phải được làm rõ ở trong bài viết này:

   1- Tiếp tục cải tiến chữ Quốc Ngữ cho hoàn chỉnh hơn là việc làm đúng đắn và cần thiết. Không có gì là “MẤT BÌNH THƯỜNG” mà đây chỉ là sự tiếp tục cần thiết như nó vốn có.
  Nhưng tại sao có một số người lại không tán thành? Chúng ta có thể hiểu vì một số nguyên nhân chủ yếu sau:
  -Chúng ta chưa tìm hiểu để biết rõ chữ Quốc Ngữ được hình thành và phát triển cho đến bây giờ đã trải qua quá trình chỉnh sửa như thế nào? (Chữ Quốc Ngữ lúc mới hình thành và bây giờ đã khác xưa nhiều lắm!).
   -Tâm lý chung chúng ta không thích thay đổi thói quen. Câu chuyện thuở xa xưa…“Quả đất hình tròn” là một minh chứng điển hình.
  -Cũng có thể do vô tình, chưa tìm hiểu nên chưa thấy hết những tồn tại bất cập không đáng có của chữ Quốc Ngữ hiện nay.
  -Chúng ta chưa đọc công trình nghiên cứu để hiểu Chữ Việt Nam Song Song 4.0 như thế nào.
  -Cũng vẫn còn có nhiều người coi chữ Quốc Ngữ là “Hồn thiêng sông núi”, là “Quốc hồn quốc túy” vì chưa phân biệt rạch ròi giữa tiếng nói và chữ viết…
Trong lúc:
Tiếng nói là ngôn ngữ cần phải được bảo tồn và phát triển. Nó mới là “Quốc hồn, quốc túy!”. Còn chữ viết chỉ là phương tiện để thể hiện, biểu đạt (ghi lại) tiếng nói một cách hiệu quả nhất. (Tiếng nói là kí hiệu còn chữ viết là kí hiệu của kí hiệu). Sự thay đổi phương tiện là quy luật của phát triển. Phương tiện (chữ viết) càng chỉnh sửa, càng hiện đạị thì tiếng nói (ngôn ngữ) càng phát triển.

   2- Theo dõi những bình luận trên Facebook, một số người cho rằng: Không nên “CHỈNH SỬA” nữa! Chữ Quốc Ngữ hiện nay đã hoàn chỉnh lắm rồi!?
  Đây là một trong những quan niệm sai lầm không đáng có.
   -Thay đổi sẽ gây tốn kém cho ngân sách Nhà Nước, phải in lại toàn bộ kho tàng văn hóa của dân tộc? In laij các văn bằng, chứng chỉ, khế ước, tiền bạc và tất cả các văn bản bằng chữ Quốc Ngữ…Thay đổi trong quan hệ quốc tế…
-Đất nước còn nghèo…!
-Vấn đề quá sức phức tạp…
-Người lớn sẽ trở nên mù chữ…vân vân và vân vân…
   Lo nghĩ của các bạn là đúng! Nhưng không phải hoàn toàn như vậy?
   Chữ VNSS4.0 là thứ chữ mà những người biết chữ Quốc Ngữ chỉ mất từ 2 – 4 giờ tìm hiểu là đọc và viết được ngay. Nên những văn bản bằng chữ Quốc Ngữ nói chung không cần phải thay đổi. Vì ai biết chữ VNSS4.0 đều đọc và viết được chữ Quốc Ngữ.
  Bởi vì, chữ Quốc Ngữ và chữ VNSS4.0 được dùng song song nên bạn viết bằng chữ Quốc Ngữ hay chữ VNSS4.0 đều được. Không ảnh hưởng đến “hòa bình thế giới”.
Bằng chứng Trung Quốc hơn 1,7 tỷ dân có một kho tàng văn hóa đồ sộ hàng ngàn năm, vẫn thay chữ Hán phồn thể sang chữ Hán giản thể? Mà…đất nước của họ vẫn phát triển và vươn lên đứng hàng thứ hai thế giới về kinh tế.
Các bạn không cần phải lo. Những bộ phận tham mưu có chức năng sẽ tính toán để giải quyết vấn đề này.
 
    3- Là người Việt Nam chân chính, chúng ta cần phải àm gì?
Theo chúng tôi, cách đúng đắn nhất là ủng hộ sáng kiến chữ VNSS4.0, cùng nhau tìm hiểu, trao đổi, học hỏi…đóng góp chân tình cho sáng kiến tiến bộ này, cùng nhau tích cực tuyên truyền vận động mọi người tìm hiểu chữ VNSS4.0 vì tương lai con em của chúng ta và của cả dân tộc VN thân yêu của chúng ta!
  Chúng tôi nghĩ đây chính là cách tốt nhất để cho đất nước chúng ta không bị lạc hậu, đủ tâm, đủ tầm, ngẩng cao đầu, sánh vai với bè bạn năm châu bốn biển cùng tiến lên.
Thân ái, chân thành xin được chia sẻ với các bạn bài viết ngắn này. Xin cảm ơn các bạn đã đọc.
---------
Tác giả: Hoàng Nguyên. 
Fb: Nguyên Hoàng https://www.facebook.com/profile.php?id=61552469565252


#chuvnsongsong 
by Admin
on 26/11/2023, 10:12
 
Search in: Ý tưởng mới cho chữ Việt
Chủ đề: NHÂN NGÀY TIẾNG MẸ ĐẺ 21/02 - Tác giả: Nguyên Hoàng
Trả lời: 0
Xem: 241

Giá trị tiếng Việt qua các minh chứng nghiên cứu. Thêm góc nhìn từ CVNSS4.0 (Tác giả: Long Ngo)

Giá trị tiếng Việt qua các minh chứng nghiên cứu. Thêm góc nhìn từ CVNSS4.0
(Bài của Thạc sĩ Long Ngo, chuyên viên xử lý ngôn ngữ tự nhiên, ngày 7-4-2023)

---------------
Chúng ta luôn bị giới hạn bởi việc não bộ trong tiếp nhận và xử lý thông tin nhanh, nhưng không bị giới hạn việc xử lý thông tin bằng khả năng nghe. Điều này, có liên quan đến sự phát triển sinh học của bộ não và khả năng tiếp nhận của não bộ thông qua thông tin lời nói. Dù ta có nói nhanh hay chậm thì cũng đều có tốc độ truyền dữ liệu nhanh nhất khoảng 39,15 bit/s (cao gấp 2 lần của mã Morse). Mặt khác, Tiếng Việt ta có mật độ thông tin cao nhất trong 17 ngôn ngữ điều này rất thú vị cho sự phát triển của Chữ VN Song Song 4.0 (CVNSS4.0) trong tương lai. Bài phân tích dưới đây sẽ làm rõ 2 luận điểm này:

1. Tốc độ truyền dữ liệu nhanh nhất

Nghiên cứu của nhóm Coupé et al., (2019) đã thực hiện nghiên cứu, tiếng Việt xếp đầu bảng với 8 bit cho mỗi âm tiết trong bảng xếp hạng của 17 ngôn ngữ được phân tích (hình 1). Trong khi đó, tiếng Nhật, với chỉ 643 âm tiết, có mật độ thông tin chỉ khoảng 5 bit cho mỗi âm tiết, và tiếng Anh, với 6.949 âm tiết, có mật độ thông tin chỉ hơn 7 bit cho mỗi âm tiết. Tiếng Việt dùng 6 dấu âm, cho phép ta nén thông tin cao nhất (so với Anh, Nhật, Nga...). Do mỗi âm tiết tiếng Việt chứa 8 bit thông tin, điều này đồng nghĩa với việc tiếng Việt truyền tải thông tin gấp đôi so với tiếng Nhật, và chỉ cần nói với nửa tốc độ của tiếng Nhật thì vẫn đạt được tương đương thông tin.

Và cũng là ngoại ngữ khó học nhất do các thanh dấu tạo nên! Ví dụ: chỉ cần đổi dấu... Dưa, Dứa, Dừa, Dữa, Dửa, Dựa là thông tin thay đổi hoàn toàn. Trong khi đó, CVNSS4.0 trên môi trường máy tính sẽ là Zuao, Zuax, Zuak, Zuaw, Zuav, Zuah sẽ không tốn nhiều Bit, như vậy giúp cho việc truyền dữ liệu là tối ưu nhất.

Ví dụ kế tiếp: Tiếng Việt chỉ cần 1 âm tiết "chào", tiếng Anh do đa âm tiết sẽ là "hê-lô" (hello). Do đó mà để diễn đạt cùng 1 ý tứ nào đó tiếng Việt nghe rất ngắn gọn, súc tích, còn tiếng Anh sẽ nghe rất dài.

2. Mật độ thông tin cao nhất

Nghiên cứu của nhóm Pellegrino et al., (2011) đã thực hiện trên 7 ngôn ngữ khác nhau, bao gồm Anh, Đức, Pháp, Ý, Nhật, Quan Thoại (Trung Quốc), và Tây Ban Nha với tiếng Việt được chọn làm điểm tham chiếu để so sánh với nhau. Kết quả cho thấy tiếng Việt có mật độ (độ nén) thông tin cao nhất, đạt giá trị là 1, trong khi các ngôn ngữ khác đều có mật độ thông tin thấp hơn, dưới 2 (hình 2). Các ngôn ngữ gần nhất về mật độ thông tin so với tiếng Việt là tiếng Anh và tiếng Quan Thoại. Điều đó, nghĩa là Tiếng Việt ngôn ngữ giàu thông tin với 1 âm tiết chứa 8 bit thông tin, trong khi tiếng Anh thì 1 âm tiết chỉ có 7 bit thông tin, còn tiếng Nhật với 1 âm tiết chỉ có 5 bit thông tin. Việc giữ được hồn của tiếng Việt với 6 thanh điệu trong môi trường máy tính, chứa được nhiều thông tin, cho thấy CVNSS4.0 đã hữu dụng.

3. Ứng dụng CVNSS4.0

Các nghiên cứu này là một phát hiện thú vị, giúp chúng ta hiểu thêm về đặc điểm của tiếng Việt. Thông tin này cũng phần nào thể hiện được tính cô đọng, đơn giản của tiếng Việt, với khả năng truyền tải thông tin cao và số lượng từ cần thiết để truyền tải ý nghĩa là ít. CVNSS4.0 với nền tảng chữ quốc ngữ trong sự phát kiến của nhóm tác giả Trần Tư Bình và Kiều Trường Lâm (2020), đã tận dụng tính hiệu quả để tăng tốc độ xử lý nhằm truyền tải thông tin cao nhất trong mỗi âm tiết. Điều này giúp cho khả năng tư duy phát triển của người nói tiếng Việt, trong đó khả năng tư duy có thể giúp rút ngắn và truyền tải thông tin một cách hiệu quả.

4. Kết luận mở

CVNSS4.0 là kiểu viết ngắn gọn để diễn ngôn cho tiếng Việt trong môi trường số, không dấu và dấu thanh, chỉ dùng 26 chữ cái bảng chữ cái Latinh để mã hóa thông tin hiệu quả. Tiếng Việt là ngôn ngữ dân tộc Việt có từ thời Hùng Vương, vượt qua 1000 năm Bắc thuộc, phát triển đến ngôn ngữ cô đọng ngày nay. Dẫu trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm, qua nhiều hệ thống các ký hiệu để ghi lại ngôn ngữ khác nhau. Song Tiếng Việt là tinh hoa, là bản sắc và linh hồn của văn hóa Việt, giúp dân tộc đứng vững và mãi mãi sau này. Nghiên cứu giá trị tiếng Việt là nhắc nhở để hiểu và giữ gìn di sản to lớn này, góp phần làm giàu, phong phú ngôn ngữ của dân tộc khẳng định sức mạnh trên mọi môi trường.

----------------------------
Note: ***Chương trình dự án Chữ VN Song Song 4.0 (CVNSS4.0) là do một nhóm tác giả người Việt yêu thích ngôn ngữ tiếng Việt, tạo lập một cộng đồng phi lợi nhuận xuyên quốc gia, nhằm thể hiện vai trò con người trong biểu đạt thông tin trên môi trường số thông qua việc khởi tạo và triển khai ngôn ngữ Bila máy tính trên nền tảng CVNSS4.0 để bảo mật riêng tư, ẩn danh, phi tập trung trong lưu trữ. Chương trình này hiện phát triển trên các ứng dụng mã nguồn mở và miễn phí, kết hợp tính khả dụng của chữ Quốc ngữ và tính không giới hạn của tiếng Việt, nhằm lan tỏa hiểu biết khoa học ngôn ngữ với máy tính để bảo tồn văn hóa Việt Nam trên không gian số.

5. Tài liệu tham khảo

Coupé, C., Oh, Y. M., Dediu, D., & Pellegrino, F. (2019). Different languages, similar encoding efficiency: Comparable information rates across the human communicative niche. Science advances, 5(9), eaaw2594. Link <https://www.science.org/doi/10.1126/sciadv.aaw2594>

Kieu-Tuong Lam, & Tran-Tu Binh. (2020). Typing CVNSS4.0 with EVKEY is a quick way to type Vietnamese characters on a computer (1.0). Zenodo. https://doi.org/10.5281/zenodo.7077573

Pellegrino, F., Coupé, C., & Marsico, E. (2011). Across-Language Perspective on Speech Information Rate. Language, 87, 539 - 558. Link < https://www.jstor.org/stable/23011654>

____________________


+ NGUỒN:
https://www.facebook.com/groups/toiyeuchuviet4.0/permalink/974308747316573/?mibextid=Nif5oz

+ Long Ngo: Tên thật là NGÔ HOÀNG ĐẠI LONG – hiện đang là Nghiên cứu viên tại Phân hiệu Đại học Quốc gia-TP.HCM tại tỉnh Bến Tre, có nhiều công trình khoa học – được công bố trên Scopus & WoS – liên quan đến hướng nghiên cứu của mình về Địa lý ngôn ngữ, nhất là các Ứng dụng của xử lý ngôn ngữ tự nhiên (Natural Language Processing – NLP) trong GIScience. (Facebook: Long Ngo – https://www.facebook.com/dailong0606 , Email: ngohoangdailong@gmail.com)

+ Xem công thức và mục đích Cvnss4.0 ở:
http://chuvietnhanh.sourceforge.net/CongThucChuVNSongSong4.0VaViDu.htm

#chuvnsongsong 
by Admin
on 7/4/2023, 19:06
 
Search in: Chữ VN Song Song 4.0
Chủ đề: Giá trị tiếng Việt qua các minh chứng nghiên cứu. Thêm góc nhìn từ CVNSS4.0 (Tác giả: Long Ngo)
Trả lời: 0
Xem: 165

Chữ VN Song Song 4.0 từ "phát kiến" đến sự hình thành giả thuyết cho bộ chữ Bila (Tác giả Long Ngo)

(Bài của Thạc sĩ Long Ngo, chuyên viên xử lý ngôn ngữ tự nhiên, ngày 22-3-2023)

Chữ VN Song Song 4.0 từ "phát kiến" đến sự hình thành giả thuyết cho bộ chữ Bila

----------------
Bộ chữ mới Bila này được đặt theo tên hai đồng tác giả Trần Tư Bình và Kiều Trường Lâm. “Bila” ghép từ 2 chữ cái đầu tiên của chữ Bình và Lâm. Sau hơn 40 năm nghiên cứu về vấn đề cải tiến chữ Việt, hai tác giả đã phát kiến ra bộ chữ Chữ VN Song Song 4.0 (CVNSS4.0) [1] [2] [3] được công nhận bản quyền số 1850/2020/QTG.

Để ghi nhận sự đóng góp của họ, chúng tôi gọi bộ chữ CVNSS4.0 là “bộ chữ Bila”, tên tiếng Anh là Bila Script Language (BSL) trong môi trường máy tính.

Xét về tính quyết định tương đối của ngôn ngữ chúng tôi cho rằng: ngôn ngữ chúng ta dùng sẽ ảnh hưởng đến cách chúng ta nghĩ, cách chúng ta quyết định một cách mặc định.

Khi “hình thức chữ viết” của một ngôn ngữ “mẹ đẻ” bị thay đổi về cách biểu hiện bên ngoài thì sẽ xuất hiện những suy nghĩ định kiến trái chiều, không chấp nhận của cộng đồng nói ngôn ngữ đó.

Ngôn ngữ không tự nhiên sinh ra mà nó là một sản phẩm của tư duy con người trong hoàn cảnh cụ thể, môi trường cụ thể cho từng mục đích nhất định. Mỗi ngôn ngữ được tạo dựng để phù hợp để thích ứng với một nền văn hóa riêng nhằm truyền tải được “phần hồn của tiếng mẹ đẻ” trong các môi trường vật lý lẫn phi vật lý, lớp vỏ bọc ngôn ngữ chỉ là hình thức biểu hiện bên ngoài. Điều này, giúp chúng tôi nghiên cứu để củng cố và hoàn thiện “Giả thuyết về sự phản kháng ngôn ngữ Bila”.

Nếu giả thuyết này phù hợp sẽ kiểm định được sự phản kháng thông qua chữ quốc ngữ để đánh giá mức độ sẵn sàng của mỗi cá nhân khi tham gia vào không gian mạng. Điều đó, có nghĩa khi quyền riêng tư càng cao, tính phản kháng chấp nhận bảo toàn tính riêng tư được quan tâm nhiều vì nó liên quan đến việc lưu trữ, hiển thị và cung cấp cho bên thứ ba thông tin liên quan đến bản thân thông qua Internet.

Điểm nhấn của ngôn ngữ Bila này, nó là phương tiện truyền tải thông tin phi tập trung, nghĩa là người nhắn tin lẫn nhận tin không còn phải phụ thuộc hay đặt niềm tin vào bất kỳ tổ chức trung gian nào để kiểm soát dữ liệu, nội dung mà họ trao đổi, mà thay vào đó họ có thể trực tiếp giao dịch trực tiếp với nhau thông qua Cvnss4.0 (ngôn ngữ Bila), không sợ bị bên thứ ba nắm giữ và sao chụp nếu họ không biết và học Cvnss4.0 ngay từ đầu. Từ nền tảng ý tưởng này, giúp chúng ta có thể tạo ra nhiều ứng dụng công nghệ nhằm mã hóa các giao dịch từ không gian mạng ra môi trường vật lý thực tế.

Có thể thấy, ảnh hưởng của ngôn ngữ Bila sẽ tác động đến cách hành xử của chúng ta khi ta tiếp cận thế giới trên không gian mạng. Điều này cũng giống như đặc điểm của phương tiện giao thông sẽ có ảnh hưởng quyết định đến cách thức chúng ta tham gia giao thông, chứ không nhất thiết phải ảnh hưởng đến bản thân đối tượng hay địa điểm mà chúng ta muốn tiếp cận như thế nào. Ngôn ngữ Bila, nó vẫn là sự phản kháng đối với ai không hiểu về Cvnss4.0, nhưng tương lai nó sẽ thành một quy tắc chung trong sự giao tiếp để bảo vệ riêng tư của mỗi cá nhân trên không gian mạng.

--- Long Ngo ---
-------------------------
Tham khảo:
[1] https://chuvietnhanh.sourceforge.net/ChuVietNhanhKieuChuVietCucNgan.htm

[2] https://tinhte.vn/thread/co-duyen-nao-chu-vn-song-song-4-0-ra-doi-cach-day-vai-thang.3111004/

[3] https://chuvietnhanh.sourceforge.net/CongThucChuVNSongSong4.0VaViDu.htm
_________________

- NGUỒN:
https://www.facebook.com/groups/toiyeuchuviet4.0/permalink/965641364849978/?mibextid=Nif5oz

Topics tagged under chuvnsongsong on Chữ Việt Forum 33727110

- Long Ngo: Tên thật là NGÔ HOÀNG ĐẠI LONG – hiện đang là Nghiên cứu viên tại Phân hiệu Đại học Quốc gia-TP.HCM tại tỉnh Bến Tre, có nhiều công trình khoa học – được công bố trên Scopus & WoS – liên quan đến hướng nghiên cứu của mình về Địa lý ngôn ngữ, nhất là các Ứng dụng của xử lý ngôn ngữ tự nhiên (Natural Language Processing – NLP) trong GIScience. (Facebook: Long Ngo – https://www.facebook.com/dailong0606 , Email: ngohoangdailong@gmail.com)

#chuvnsongsong
by Admin
on 2/4/2023, 10:24
 
Search in: Chữ VN Song Song 4.0
Chủ đề: Chữ VN Song Song 4.0 từ "phát kiến" đến sự hình thành giả thuyết cho bộ chữ Bila (Tác giả Long Ngo)
Trả lời: 0
Xem: 130

Chữ 4.0 là một phát minh.

CHỮ 4.0 LÀ MỘT PHÁT MINH 
Chữ Quốc Ngữ là một phát minh lớn và quý giá cho tiếng Việt. Không ai phủ nhận điều này. 
So với chữ Nôm, nó là phương tiện giúp diễn đạt tiếng Việt được dễ dàng và hữu hiệu hơn, nhất là trong thời kỳ còn lệ thuộc nhiều vào in ấn trên giấy, vào viết tay khi chưa có phần mềm để gõ chữ Việt. 


Nhưng trong thời đại công nghệ số hiện nay, người Việt càng ngày càng ít cầm bút viết chữ mà dùng phần mềm để gõ nhiều hơn. 
Dù hiện nay đã có nhiều phần mềm để gõ Chữ Quốc Ngữ nhưng vẫn còn rất nhiều người lúng túng trong việc sử dụng. 
Trong vé máy bay, thẻ ngân hàng,v.v.. vẫn còn dùng Chữ Quốc Ngữ không dấu, gây trở ngại ít nhiều trong việc đọc hiểu chính xác. 


Chữ của TS. Bùi Hiền thì cũng giống như chữ Trung Quốc giản thể mà thôi. Nó chỉ là chữ cải tiến và vẫn cần phần mềm để thể hiện. Nó không phải là phát minh. 


Còn chữ VN Song Song 4.0 là bộ chữ Việt không cần phần mềm để gõ. Và gõ chữ 4.0 thì cần ít phím hơn so với gõ phím Chữ Quốc Ngữ. 


Dấu phụ và dấu thanh của Chữ Quốc Ngữ đã được mã hóa trong chữ cái cuối cùng ở chữ 4.0. Nó giúp ta đọc chữ 4.0 cũng dễ dàng và tương tự như khi đọc Chữ Quốc Ngữ. 


Vì vậy, có thể nói Chữ 4.0 là một phát minh. Phát minh này không lớn bằng phát minh của Chữ Quốc Ngữ, nhưng vẫn là một phát minh. 


-----------
Xem công thức và lợi ích của CVNSS4.0 ở: 
http://chuvietnhanh.sourceforge.net/CongThucChuVNSongSong4.0VaViDu.htm 


#chuvnsongsong
by Admin
on 12/8/2022, 19:08
 
Search in: Vấn đề chữ Quốc Ngữ
Chủ đề: Chữ 4.0 là một phát minh.
Trả lời: 0
Xem: 236

Về Đầu Trang

Chuyển đến